Kinh tế thị trường là gì? Các công bố khoa học về Kinh tế thị trường

Kinh tế thị trường là một hệ thống kinh tế trong đó các yếu tố sản xuất (như lao động, vốn, nguyên liệu) và các mặt hàng được quyết định và điều chỉnh bằng cách...

Kinh tế thị trường là một hệ thống kinh tế trong đó các yếu tố sản xuất (như lao động, vốn, nguyên liệu) và các mặt hàng được quyết định và điều chỉnh bằng cách tương tác giữa người mua và người bán trên cơ sở cung cầu. Trong mô hình kinh tế thị trường, quyết định về sản xuất, giá cả và phân phối hàng hóa và dịch vụ đều phụ thuộc vào sự tương tác của các cá nhân, doanh nghiệp và tổ chức trong thị trường. Kinh tế thị trường thường có tính cạnh tranh và tự do, với nhiều doanh nghiệp và người tiêu dùng tham gia trong một môi trường kinh doanh tranh cạnh.
Trong kinh tế thị trường, quyết định về sản xuất, giá cả và phân phối hàng hóa và dịch vụ không được điều chỉnh bởi chính phủ mà phụ thuộc vào sự tương tác giữa các cá nhân và doanh nghiệp trong thị trường. Người mua và người bán tương tác thông qua quá trình mua bán, đàm phán giá cả, định rõ tiêu chuẩn chất lượng, và thỏa thuận hợp đồng kinh tế.

Trong kinh tế thị trường, cung và cầu là hai yếu tố quan trọng quyết định giá cả và mức độ tiêu thụ của hàng hóa và dịch vụ. Cung là số lượng hàng hóa và dịch vụ có sẵn trong thị trường, còn cầu là mức độ mong muốn mua của người tiêu dùng. Khi cung cao hơn cầu, giá cả sẽ giảm để thúc đẩy tiêu thụ, còn khi cầu cao hơn cung, giá cả sẽ tăng để hạn chế tiêu thụ.

Trong một hệ thống kinh tế thị trường, các doanh nghiệp hoạt động trong một môi trường cạnh tranh, nơi họ cạnh tranh với nhau để thu hút khách hàng và tăng cường năng lực cạnh tranh. Các doanh nghiệp cũng phải luôn cải tiến sản phẩm và dịch vụ của mình để đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng.

Các quyết định kinh tế như đầu tư, tiêu dùng và sử dụng tài nguyên cũng phụ thuộc vào quyền lực của các cá nhân và doanh nghiệp trong kinh tế thị trường. Những quyết định này được đưa ra dựa trên hi vọng kiếm lợi, sự cạnh tranh và tình hình kinh tế chung.

Tuy nhiên, chính phủ vẫn có vai trò trong việc ổn định thị trường, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và quyền sở hữu, và tạo ra một môi trường công bằng cho cạnh tranh.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "kinh tế thị trường":

Đo lường Hiệu quả Kinh tế trong Nông nghiệp Pakistan Dịch bởi AI
American Journal of Agricultural Economics - Tập 77 Số 3 - Trang 675-685 - 1995
Tóm tắt

Các hàm chi phí hành vi và ngẫu nhiên được áp dụng để ước lượng sự không hiệu quả chi phí của các nông trại. Cách tiếp cận hành vi đáp ứng hầu hết các giả định của hàm chi phí kép và kiểm định tỷ lệ khả năng bác bỏ giả thuyết về hiệu quả thị trường, ngụ ý rằng việc sử dụng phần dưỡng, lao động và phân bón ít hơn mức tối ưu. Việc sử dụng không tối ưu được giải thích bởi quy mô nắm giữ, giáo dục, tín dụng và nhu cầu sinh kế. Các nông trại nhỏ dường như hiệu quả hơn so với các nông trại lớn trong khu vực. Một thước đo không hiệu quả dựa trên phương pháp đường biên chi phí ngẫu nhiên xác nhận kết quả của cách tiếp cận hành vi.

#hiệu quả kinh tế #nông nghiệp Pakistan #chi phí hành vi #đường biên chi phí ngẫu nhiên #thị trường hiệu quả #quy mô nắm giữ #giáo dục #tín dụng #nông trại nhỏ #không hiệu quả chi phí
Văn hóa truyền thông đại chúng ở Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường và toàn cầu hóa
Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn - Tập 3 Số 4 - Trang 530-532 - 2017
Theo một nghiên cứu độc lập của Huỳnh Văn Thông (2013), tỷ lệ người có độ tuổi dưới 30 có thói quen truy cập internet sau 22h là 78.2% và 42.8% trong đó thường xuyên truy cập internet sau 24h. Từ đó hình thành nên chu kỳ ngủ-thức kiểu “cú” (ngủ muộn dậy muộn) thay vì kiểu “chiền chiện” (ngủ sớm dạy sớm) như trước đây. Chúng ta có thể bắt gặp rất nhiều ví dụ thú vị và “thường ngày” như đoạn dẫn trên trong cuốn sách “Văn hóa đại truyền thông đại chúng ở Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường và toàn cầu hóa” (Đặng Thị Thu Hương chủ biên) để thấy được truyền thông càng ngày càng tác động mạnh mẽ vào từng hoạt động bình thường của công chúng cũng như có ảnh hưởng sâu rộng đến một vấn đề nền tảng nhất trong nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn: Văn hóa. Cuốn sách này đặc biệt ở chỗ nó giới thiệu một cách đầy đủ và có hệ thống các lý thuyết đương đại của thế giới về truyền thông đại chúng và văn hóa đại chúng (mass culture) cũng như việc ứng dụng và kiểm nghiệm các lý thuyết đó vào thực tiễn Việt Nam thông qua các khảo sát công chúng (diện rộng với hàng nghìn bảng hỏi được phân bố theo địa lý) và phân tích nội dung (từ các chủ đề “hot” như người nổi tiếng  cho đến giá trị văn hóa được thể hiện như thế nào trên báo chí). Chính sự công phu trên làm cho cuốn sách trở thành một công trình đáng chú ý khi việc nghiên cứu truyền thông ở nước ta còn chưa quá phát triển so với sự tăng tốc nhanh chóng của ngành công nghiệp truyền thông trong bối cảnh kỹ thuật số và toàn cầu hóa. Cuốn sách được chia thành năm chương lớn, trong đó chương 1 giới thiệu các vấn đề lý thuyết chung và phương pháp nghiên cứu của toàn bộ nghiên cứu, trong đó đặc biệt nhấn mạnh vào bối cảnh toàn cầu hóa của thế giới nói chung và kinh tế thị trường (định hướng XHCN) nói riêng tại Việt Nam; chương 2 giới thiệu văn hóa truyền thông đại chúng (VHTTDC) ở một số quốc gia (Trung Quốc, Hàn Quốc, Mỹ); chương 3 phân tích VHTTDC Việt Nam nhìn từ kênh truyền thông đại chúng; chương 4 phân tích VHTTDC Việt Nam nhìn từ góc độ công chúng tiếp nhận, và cuối cùng chương 5 khuyến nghị các vấn đề của VHTTDV: Nhìn về phía tương lai. Chương 1 của cuốn sách rất có giá trị khi đưa ra được một cái nhìn tổng quan về các thuật ngữ quan trọng nhất: “văn hóa”, “truyền thông đại chúng” (TTDC), “văn hóa đại chúng” trong đó nhấn mạnh vào tính liên ngành khi tiếp cận vấn đề thông phương tiện TTDC (báo chí, internet,…). Hướng tiếp cận này nhấn mạnh vào ba khía cạnh chính: một là, chính các phương tiện TTDC là một hiện tượng văn hóa. Hai là, các phương tiện truyền thông là công cụ để truyền bá văn hóa. Ba là, văn hóa TTDC là giá trị sản phẩm do  phương tiện TTDC mang lại cho công chúng của mình. Đây là hướng tiếp cận hợp lý để có thể triển khai nghiên cứu liên ngành văn hóa-truyền thông, khác với quan niệm thông thường khi cho rằng phương tiện TTDC chỉ là vấn đề kỹ thuật hoặc hình thức. Từ đó, các tác giả tổng quan các nhóm lý thuyết chính hiện nay là: hướng tiếp cận từ lý thuyết về nghiên cứu văn hóa, hướng tiếp cận từ lý thuyết tâm lý học, hướng tiếp cận từ lý thuyết báo chí truyền thông, hướng tiếp cận từ lý thuyết hiện đại và hậu hiện đại. Quan trọng nhất, phần cuối của chương 1, các tác giả đã phân tích được bối cảnh hiện nay của ngành công nghiệp truyền thông, công nghiệp văn hóa Việt Nam (với các số liệu và phân tích chính sách vĩ mô rất chi tiết) trong các biến đổi phức tạp của thế giới toàn cầu hóa và nền kinh tế thị trường để thấy được các vấn đề thực tiễn cần được nghiên cứu nhằm “làm giàu cho nền văn hóa Việt Nam” và “ngặn chặn loại trừ khỏi cuộc sống xã hội  những mầm hại cỏ độc xâm nhập theo các kênh thông tin”. Chương 2 tổng kết qua các nét lớn trong văn hóa TTDC ở 3 quốc gia: Mỹ (có ảnh hưởng đến toàn cầu), Trung Quốc (có bối cảnh xã hội tương tự với Việt Nam), và Hàn Quốc (hiện tượng văn hóa TTDC đặc biệt nhất trong giai đoạn hiện nay). Tuy vậy, chương này mới đưa ra các hiện tượng ở từng nước riêng rẽ mà chưa có một cái nhìn xuyên suốt để chỉ ra các so sánh trực tiếp với Việt Nam (đối tượng nghiên cứu chính). Chương 3 và 4 tiếp cận văn hóa TTDC theo hai góc độ kinh điển với nghiên cứu truyền thông: kênh và công chúng. Điểm hấp dẫn nhất của hai chương này là đều có số liệu định lượng cụ thể và cập nhật (ai, giờ nào, thường tiếp xúc với kênh thông tin nào, tiếp nhận thông tin nhiều hay ít,…) đi kèm với các kết luận, từ đó giúp người đọc dễ dàng hình dung ra sự biến đổi liên tục của văn hóa thông qua TTDC. Hai chương rất sinh động khi đưa các vấn đề “nóng”, gây bức xúc như truyền thông sa đà vào hiện tượng người nổi tiếng dẫn đến “văn hóa giải trí mới”, xuất bản phẩm “ngôn tình” dẫn đến sự lệch lạc trong quan điểm của người trẻ,… Chương 4 còn công phu trong việc nghiên cứu toàn diện công chúng từ bối cảnh của công chúng cho đến sự thay đổi cụ thể các hành vi của công chúng trong quá trình “sống với” văn hóa TTDC. Chương 4 còn bước đầu chỉ ra các hướng cụ thể trong nghiên cứu công chúng hiện nay: công chúng với văn hóa giải trí, công chúng với văn hóa tiêu dùng và tiêu dùng văn hóa, công chúng và sự biến đổi ngôn ngữ trong quá trình truyền thông và những hệ lụy mà ngôn ngữ mới đó đem lại. Chương 5 hướng đến việc đưa ra các giải pháp vĩ mô về mặt chính sách sau khi đã rút ra các kết luận lớn từ thực tiễn của chương 3 và chương 4. Các giải pháp được đưa ra đồng bộ trên nhiều phương diện: luật pháp, đầu tư, giáo dục,… nhưng nhấn mạnh nhất vào việc phải có sự hợp tác và hiểu biết đồng thời từ cả các nhà quản lý, nhà báo và người dân-công chúng thụ hưởng và tiêu thụ truyền thông để hướng tới “văn hóa TTDC phục vụ sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước”. Tựu chung lại, đây là một chuyên khảo thành công với một lượng lớn lý thuyết được xử lý nhuần nhuyễn, khảo sát công phu với số lượng mẫu lớn, các kết luận chắc chắn đáng tin cậy bởi khả năng xử lý số liệu tốt, các phân tích sâu về mặt chính sách đều dựa trên việc trích dẫn hợp lý các văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà nước cùng với sự hậu thuẫn của nhãn quan lý thuyết và số liệu thực tế. Chính vì thế, bất kỳ sinh viên ngành báo chí truyền thông, nhà báo, người thực hành và quản trị truyền thông,… đều nên lấy đây là một tài liệu tham khảo quan trọng.
Phân tích ảnh hưởng của các nhân tố kinh tế vĩ mô đến thị trường chứng khoán Việt Nam
Bài nghiên cứu phân tích ảnh hưởng của các nhân tố kinh tế vĩ mô đến thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam trong dài hạn và sự điều chỉnh trong ngắn hạn bằng cách sử dụng kiểm định Engle–Granger và mô hình hiệu chỉnh sai số ECM với số liệu tháng trong giai đoạn từ tháng 1/2009 – 7/2013. Kết quả cho thấy chỉ số giá tiêu dùng, cung tiền và giá dầu thô tác động đến thị trường chứng khoán Việt Nam trong dài hạn. Trong ngắn hạn, giá dầu thô và lãi suất có ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán Việt Nam. Nghiên cứu cũng sử dụng thêm kiểm định nhân quả Granger để xem xét tác động qua lại của thị trường chứng khoán và các nhân tố vĩ mô. Kết quả của kiểm định Granger khẳng định lần nữa tác động của các nhân tố vĩ mô kể trên đến thị trường chứng khoán Việt Nam.
#nhân tố kinh tế vĩ mô #thị trường chứng khoán Việt Nam #kiểm định Engle – Granger #mô hình hiệu chỉnh sai số (ECM) #kiểm định nhân quả Granger.
Mô hình Blended Learning thích hợp như thế nào trong giáo dục đại học khối kinh tế? – Một tình huống triển khai tại Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
Phương pháp Blended Learning đã được chứng minh hiệu quả trong giáo dục đại học trên thế giới. Tại Việt Nam, việc áp dụng Blended Learning cũng đã được triển khai tại một số trường và mang lại một số kết quả cụ thể. Cơ hội và thách thức trong triển khai Blended Learning đã được nhiều nghiên cứu chỉ ra. Bài báo này, trình bày cách thức triển khai Blended Learning trong khối ngành kinh tế mang lại những lợi ích và thách thức đối với trường đại học như thế nào, từ đó chứng minh rằng nó thích hợp như thế nào trong giáo dục đại học đặc biệt khối kinh tế. Nghiên cứu triển khai được tiến hành thực nghiệm trong khoảng 1,5 năm (giai đoạn 2016-2017) tại Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh là một tình huống cung cấp những kết quả hữu ích trong việc phân tích những kết quả, cơ hội, thách thức khi triển khai Blended Learning cho giáo dục đại học khối ngành kinh tế. 16.00 Normal 0 false false false EN-US X-NONE X-NONE /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-priority:99; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt; mso-para-margin:0cm; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman",serif;}
#Blended Learning #giáo dục đại học #khối kinh tế
Vấn đề phát triển kinh tế biển - đảo, ven biển Việt Nam thời kỳ kinh tế thị trường và hội nhập
Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 Biển Đông có diện tích 3 537 000 km 2 (theo bách khoa toàn thư Địa lý Xô Viết), là biển lớn thứ 4 trong 61 biển quan trọng trên thế giới. Vùng biển Đông của Việt Nam có tiềm năng lớn về kinh tế, có vị trí quan trọng trong việc bảo vệ an ninh quốc phòng đối với quốc gia. Bờ biển kéo dài 3260 km, lãnh hải rộng 12 hải lý, vùng tiếp giáp lãnh hải rộng 24 hải lý, vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý, Việt Nam đang sở hữu nguồn tài nguyên lớn về sinh vật và không sinh vật, tài nguyên đặc biệt, nhưng hiệu quả khai thác chưa cao. Vì vậy, việc xây dựng kế hoạch chiến lược phát triển kinh tế biển - đảo và bờ biển cần được quan tâm đặc biệt. Bởi nó không chỉ có ý nghĩa kinh tế mà còn ý nghĩa bảo vệ an ninh quốc phòng, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia. /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;}
#Kinh tế biển-đảo #Biển Đông Việt Nam #tài nguyên biển Việt Nam #các khu kinh tế ven biển
Đánh giá một số yếu tố liên quan đến rối loạn sự chú ý trên bệnh nhân động kinh vô căn ở người trưởng thành
Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm đánh giá một số yếu tố liên quan đến rối loạn sự chú ý trên bệnh nhân động kinh vô căn ở người trưởng thành. Đối tượng và phương pháp: 200 bệnh nhân được chẩn đoán động kinh vô căn dựa vào lâm sàng và chụp cộng hưởng từ sọ não. Các bệnh nhân được làm trắc nghiệm đánh giá sự chú ý dựa vào bộ trắc nghiệm của Hội Tâm thần học Hoa Kỳ. Kết quả: Rối loạn chú ý ở động kinh cục đơn giản có tỷ lệ thấp nhất trong số các loại động kinh khác có ý nghĩa thống kê (với p<0,05). Nhóm khởi phát < 6 tuổi có nguy cơ rối loạn chú ý cao gấp 6,27 lần so với nhóm 6 – 17 tuổi (với OR = 6,27, 95% CI: 2,04 ÷ 19,6, p=0,002), cao gấp 91,5 lần so với nhóm 18 tuổi trở lên (p=0,000). Nhóm khởi phát 6 – 17 tuổi có nguy cơ cao gấp 14,5 lần so với nhóm khởi phát 18 tuổi trở lên (p=0,000). Rối loạn chú ý ở nhóm có thời gian mắc bệnh trên 5 năm cao hơn gấp 2,65 lần so với nhóm có thời gian mắc bệnh từ 1 - 5 năm (p=0,0215) và cao gấp 3,08 lần so với nhóm có thời gian mắc dưới 1 năm (p=0,0089). Thuốc kháng động kinh không thấy ảnh hưởng đến rối loạn chú ý. Kết luận: Rối loạn chú ý ít gặp hơn ở nhóm động kinh cục bộ đơn giản. Tuổi khởi phát càng thấp (< 6 tuổi) và thời gian mắc bệnh kéo dài nguy cơ rối loạn chú ý càng cao. Thuốc kháng động kinh không ảnh hưởng đến rối loạn chú ý. Từ khóa: Động kinh, rối loạn chú ý.  
#Động kinh #rối loạn chú ý
Tự do kinh tế và quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
VNU JOURNAL OF ECONOMICS AND BUSINESS - Tập 25 Số 4 - 2009
Tóm tắt. Sau hơn hai thập niên thực hiện mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam mà cốt lõi của nó là quá trình mở rộng sự tự do cho nền kinh tế, đã có những tác động mạnh mẽ tới hầu hết các lĩnh vực kinh tế và xã hội. Bài viết tập trung làm rõ những nội dung liên quan tới tự do kinh tế và quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Mặc dù cho tới nay, Ủy ban Châu Âu (EC) và Mỹ đã đưa ra một số tiêu chí để đánh giá nền kinh tế thị trường nhưng nhìn chung các tiêu chí này mang tính chất định tính và khó định lượng. Vì vậy, xuất phát từ cách đặt vấn đề bản chất của nền kinh tế thị trường là tự do kinh doanh, tự do trao đổi, tự do lao động, hay nói một cách ngắn gọn và đầy đủ nhất, đó là “tự do kinh tế”. Tác giả đã phân tích quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, được nhìn nhận như là sự mở rộng của mức độ tự do kinh tế trong gần hai thập kỷ qua. Bài viết chỉ ra những ảnh hưởng tích cực của tự do hoá kinh tế tới sự thịnh vượng kinh tế, gia tăng việc làm, ổn định tiền tệ ở nhiều quốc gia trên thế giới và phân tích quá trình mở rộng tự do kinh tế trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam.
Tổng số: 53   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6